This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Monday, January 1, 2001

Dấu hiệu sớm của bệnh rung nhĩ

Rung nhĩ là một trong những rối loạn nhịp tim rất thường gặp. Đây là 1 hình thái rối loạn nhịp tim nhanh. Bệnh có thể là nguyên do khoảng 5% các trường hợp đột quỵ, gây ra những biến chứng nặng nề, có thể tử vong hoặc tàn phế suốt đời.

Thế nào là rung nhĩ?

Ở người bình thường, nhịp tim từ 60 - 80 lần trong một phút lúc cơ thể nghỉ ngơi. Khi rung nhĩ, các tâm nhĩ đập rất nhanh và không đều với tần số > 300/phút. Rung nhĩ ban đầu có thể chỉ thoáng qua chỉ mất khoảng vài phút, vài giờ, đôi khi vài ngày xen kẽ với những giai đoạn nhịp tim bình thường. Tuy nhiên, ví dụ không được điều trị thích hợp, rung nhĩ phát triển thành mạn tính. Vì vậy, việc chẩn đoán và điều trị rung nhĩ sớm rất cấp thiết để giảm thiểu tối đa biến chứng của rung nhĩ, đem lại cuộc sống với chất lượng tốt hơn cho bệnh nhân.

Bệnh lý mạch vành - một trong những nguyên nhân gây rung nhĩ.

Bệnh lý mạch vành - 1 trong những nguyên nhân gây rung nhĩ.

Rung nhĩ có thể xuất hiện mà không do bất kỳ một bệnh lý tim mạch thực tổn nào. Tuy nhiên, thường gặp hơn tại bệnh nhân mắc 1 bệnh lý tim mạch nào đó như bệnh van tim, nâng cao huyết áp, bệnh mạch vành, suy tim... Đôi khi có thể gặp tại bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, cường giáp hoặc bệnh tim bẩm sinh.

Dấu hiệu cảnh báo không rõ ràng

Ở nhiều người, rung nhĩ không có dấu hiệu cảnh báo rõ ràng. Triệu chứng thường gặp nhất là biểu hiện đánh trống ngực do tim đập nhanh và không đều. Bệnh nhân có cảm giác đau ngực và cảm giác ngộp thở. Trong 1 số trường hợp nếu nhịp tim quá nhanh sẽ gây triệu chứng mệt mỏi, chóng mặt, buồn nôn, khó thở, thậm chí ngất xỉu.

Hẹp van hai lá - một trong những nguyên nhân hàng đầu gây rung nhĩ.

Hẹp van hai lá - một trong những nguyên nhân bậc nhất gây rung nhĩ.

Khi có yếu tố nghi ngờ hoặc có những biểu hiện hồi hộp đánh trống ngực, khó thở, đau ngực, chóng mặt, vã mồ hôi, các bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân được làm điện tâm đồ.

Dựa về lâm sàng tiến triển của rung nhĩ, chia làm các thể lâm sàng: Cơn rung nhĩ kịch phát: rung nhĩ kéo dài ≤ 7 ngày, cơn tự chuyển vào nhịp xoang (nhịp của người bình thường); Rung nhĩ bền bỉ: rung nhĩ kéo dài > 7 ngày, phải sử dụng các biện pháp chuyển nhịp can thiệp mới có thể cắt được rung nhĩ; Rung nhĩ mạn tính: kéo dài hơn một năm và không thể nỗ lực chuyển nhịp được bằng các biện pháp can thiệp.

Điều trị rung nhĩ thế nào?

Kiểm soát tần số thất và chuyển rung nhĩ vào nhịp xoang: Trong phần lớn các trường hợp rung nhĩ, digitalis và/ hoặc thuốc chẹn thụ thể bêta giao cảm giúp làm tăng hiệu quả co bóp của tâm thất do làm chậm nhịp tim và có thể phục hồi được nhịp tim bình thường. Các thuốc khác như quinidin sulfat hoặc procainamid có thể được dùng thay thế nếu hai thuốc trên không hiệu quả. Bệnh nhân rung nhĩ không dung nạp khi đã điều trị tối ưu cần phải hỗ trợ tư vấn hỗ trợ của các chuyên gia về điện sinh lý học tim để có biện pháp can thiệp tích cực hơn.

Một vài trường hợp rung nhĩ dai dẳng được điều trị bằng sốc điện - người ta dùng 1 dòng điện phóng về tim lúc người bệnh được giảm đau hoặc gây mê để chuyển nhịp. Khi nhịp tim đã trở về bình thường, cần tiếp tục sử dụng thuốc duy trì để bộ phận ngừa rung nhĩ tái phát, đặc biệt lúc bệnh nền là 1 bệnh mạn tính không thể điều trị triệt để được.

Đối với bệnh nhân rung nhĩ mạn tính, có thể điều trị rung nhĩ qua đường ống thông (catheter ablation). Triệt đốt bằng catheter là phương pháp có hiệu quả và là tin tưởng lựa chọn cho bệnh nhân rung nhĩ có triệu chứng điều trị nội khoa thất bại. Đặc biệt tại bệnh nhân trẻ tuổi triệt đốt bằng catheter có ích lợi hơn là điều trị bằng thuốc kéo dài nhiều năm. Tỷ lệ thành công từ 40 - 90% với chỉ một lần triệt đốt, nếu bệnh nhân tái phát rung nhĩ có thể tiếp tục tiến hành triệt đốt nhiều lần tiếp theo.

Phẫu thuật điều trị rung nhĩ: Phẫu thuật cô lập nhĩ trái (Maze) thường được chỉ định kết hợp với các phẫu thuật tim khác như mổ bắc cầu chủ vành, thay van tim, mổ sửa chữa trong bệnh tim bẩm sinh,... Phẫu thuật sẽ tạo các đường cắt cô lập từng vùng cơ nhĩ, tiểu nhĩ và các tĩnh mạch phổi nhưng vẫn bảo tồn được chức năng dẫn truyền trong nhĩ, nhờ vậy ngăn chặn được sự hình thành các vòng về lại gây rung nhĩ.

Dự phòng huyết khối phòng chống đột quỵ: Thuốc chống đông dự bộ phận huyết khối được chỉ định sử dụng cho tất cả bệnh nhân rung nhĩ trừ duy nhất trường hợp rung nhĩ đơn độc ở bệnh nhân dưới 60 tuổi (không có bệnh lý tim mạch thực thể kèm theo) hoặc có chống chỉ định dùng thuốc chống đông máu.

Bệnh nhân rung nhĩ có bệnh cơ tim phì đại, hẹp van 2 lá hoặc van cơ học phải được điều trị bằng thuốc kháng vitamin K như: wafarin hoặc sintrom.

Các phương pháp dự bộ phận bệnh van tim và bệnh mạch vành đều giúp làm giảm nguy cơ xuất hiện rung nhĩ. Bệnh nhân rung nhĩ có thể không có triệu chứng gì. Đa số thấy hồi hộp đánh trống ngực, khó thở, đau ngực, chóng mặt, vã mồ hôi. Một số bệnh nhân về viện vì các biến chứng của bệnh như đột quỵ do tắc mạch não hay các biểu hiện của tắc mạch chi. Vì vậy, đối với người cao tuổi, người nằm trong nhóm nguy cơ cao cần giảm thiểu thuốc lá, rượu, bia. Đây là một trong những phương pháp bộ phận bệnh hiệu quả và an toàn.

BS. Ngô Tuấn Anh

 

Phụ nữ trở nên hào phóng với cánh mày râu hơn vào thời kì rụng trứng

Chúng ta thường quan niệm phụ nữ trong những ngày rụng trứng có tâm tính thất thường, dễ mệt mỏi cáu gắt vì chuyện không đâu. Nhưng có lẽ từ nay bạn phải bổ sung thêm một thông tin khá mới mẻ rằng chính trong những “ngày ấy”, phái yếu phát triển thành  đặc biệt rộng rãi, hào phóng về mặt tài chính!

 

 

Một cuộc nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc trường Đại học Texas (Hoa Kì) và đăng tải trên tờ Journal of Marketing Research đã chứng minh có một sự thay đổi thói quen chi tiêu  ở phụ nữ trong và ngoài thời kì rụng trứng.

Nghiên cứu cũng cho thấy  họ “chia sẻ” với phái mạnh nhiều hơn với những người cùng giới khác về những ngày này.

Các nhà nghiên cứu đã tiến hành cuộc thử nghiệm bằng cách đưa một khoản tiền cho 2 nhóm phụ nữ như sau. Một nhóm đang trong thời kì rụng trứng và được yêu cầu hãy chia số tiền nhận được với 1 người phụ nữ khác. Trong trường hợp này hành vi được ghi nhận là họ có xu hướng giữ lại phần lớn cho bản thân, tuy nhiên lại chia sẻ nhiều hơn ví dụ đối tượng là 1 người đàn ông. Nhóm còn lại không đang trong thời kì rụng trứng và kết quả là họ chia đều số tiền được phát với đối tượng cùng tham gia.

Giả thuyết nhằm giải thích cho hiện tượng trên: Phải chăng trong những ngày ấy phụ nữ vô thức muốn lôi kéo người bạn khác giới, và điều xúc tiến họ quyết định cho đi nhiều tiền hơn?

Thùy Hương (Theo Santemagazine)

 

 

Cách tập thể dục nào rất tốt nhất cho phụ nữ?Cách tập thể dục nào tốt nhất cho phụ nữ?Kinh hoàng nạn bạo hành phụ nữ tại châu  uKinh hoàng nạn bạo hành phụ nữ tại châu uTác hại khó lường của cà phê đối với phụ nữTác hại khó lường của cà phê đối với phụ nữ

 

15 thói quen đơn giản để sống thọ

Những thói quen nhỏ bé trong cuộc sống hàng ngày cũng có thể góp phần giúp bạn có được cuộc sống tươi trẻ, hạnh phúc và dài lâu. Do đó, bạn hãy bắt đầu tạo những thói quen tích cực ngay từ bây giờ nhé! 

Tập thể dục quá nhiều sẽ rất hại

Các nhà nghiên cứu thấy rằng tập thể dục quá nhiều cũng không rất tốt giống như không tập luyện và những người tập thể dục quá 14 tiếng mỗi tuần lại có sức khỏe kém hơn. Trong lúc chơi thể thao nhiều nói chung có tác động tích cực đối với cả sức khỏe thể chất và tinh thần, song lợi ích bắt đầu giảm đi sau một ngưỡng nhất định.

Tập thể dục quá nhiều cũng có tác dụng không rất tốt như tập quá ít. (Ảnh: Giang Lê)

Tập thể dục quá nhiều cũng có tác dụng không rất tốt như tập quá ít. (Ảnh: Giang Lê)

Từ tháng 2/2009 đến tháng 1/2010, các nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học Lausanne (Thụy Sĩ) đã phỏng vấn hơn 1.200 người ở độ tuổi 16 - 20 vào thói quen chơi thể thao.

Ở dưới ngưỡng tối đa 14 tiếng/tuần, gấp đôi khuyến nghị chính thức cho trẻ vị thành niên thì mức độ tập luyện cao hơn liên quan với mức độ stress và lo âu thấp hơn, tự tin nhiều hơn và năng lực trí óc mạnh hơn.

Nhưng lợi ích giảm đi ở những em có lượng hoạt động thể chất mỗi tuần nhiều hơn, cho thấy tập thể dục quá nhiều có thể gây hại hơn.

Điểm số đánh giá sức khỏe là rất tốt nhất ở những teen tập thể thao dưới 14 tiếng mỗi tuần, nhưng lợi ích mất đi khi tập quá 17 tiếng mỗi tuần.

Kết quả từ một số nghiên cứu sinh học đã chỉ ra rằng mức độ tập luyện rất cao có hại cho sức khỏe thể chất và tinh thần. “Những kết quả này nêu bật tầm cấp thiết của việc theo dõi hoạt động thể thao của trẻ vị thành niên, song song để ý chặt chẽ tới sức khỏe của trẻ”, các nhà nghiên cứu kết luận.

CTV (Theo telegraph)

 

Ăn uống hợp lý trong kỳ nghỉ lễĂn uống hợp lý trong kỳ nghỉ lễNgười bệnh tăng huyết áp có nên chơi thể thao?Người bệnh tăng huyết áp có nên chơi thể thao?DeepBlue kết nối trái tim người yêu nhạcDeepBlue kết nối trái tim người yêu nhạc

(SKĐS)

Biến chứng do hẹp động mạch thận

Bệnh hẹp động mạch thận (renal arterial stenosis) có thể do bẩm sinh hoặc mắc phải. Bệnh do nhiều nguyên do gây ra như: viêm động mạch, loạn sản xơ, xơ vữa động mạch, trong đó xơ vữa động mạch là nguyên do gây hẹp động mạch thận nhiều nhất. Điều đáng báo động là số người mắc bệnh này tăng rất nhanh.

Vì sao bệnh hẹp động mạch thận lại tăng nhanh?

Nhiều nghiên cứu cho biết: hiện nay, tỷ lệ bệnh nhân mắc hẹp động mạch thận gia nâng cao nhanh nhất do sự tăng nhanh của các bệnh không nhiễm khuẩn như tiểu đường, nâng cao huyết áp, rối loạn mỡ máu... Nghiên cứu ở Hoa Kỳ cho biết: năm 2006, mỗi năm có khoảng 1 triệu bệnh nhân hẹp động mạch thận mới, nhưng tới nay, tỷ lệ này không những không giảm mà còn gia nâng cao do sự tiến bộ của các phương pháp chẩn đoán sàng lọc, phát hiện ra hẹp động mạch thận tại giai đoạn chưa có triệu chứng. Trên thế giới, các nghiên cứu ở châu u và các nước phát triển tại châu Á cũng có kết quả tương tự như ở Hoa Kỳ.

Hẹp động mạch thận phải.

Hẹp động mạch thận phải.

Nghiên cứu của Sawicki và cộng sự cho biết: có 4,3% hẹp động mạch thận trên 50% (đây là mức hẹp động mạch cần can thiệp); Đối với hai nhóm bệnh nhân bị bệnh tiểu đường: nhóm không nâng cao huyết áp thì tỷ lệ bị hẹp động mạch thận là 8,3% và nhóm tiểu đường có tăng huyết áp thì tỷ lệ này là 10,1%. Theo các nghiên cứu khác, hẹp động mạch thận mức độ trên 50% chiếm tỷ lệ 15-19% trường hợp bệnh hẹp động mạch vành và 40% bệnh nhân hẹp động mạch ngoại biên; Khoảng 25% bệnh nhân hẹp động mạch thận tại cả 2 bên. Nghiên cứu của Coen và cộng sự, khảo sát siêu âm Doppler mạch sàng lọc cho nhóm người cao tuổi đã phát hiện ra rằng: tỷ lệ người mắc bệnh hẹp động mạch thận là 11% độ tuổi 50-59; tỷ lệ này là 18% tại độ tuổi 60-69 và 23% ở độ tuổi trên 70.

Ngày nay, bệnh hẹp động mạch thận đã phát triển thành loại bệnh tăng nhanh, đặc biệt nâng cao cao tại 1 số nhóm người: hút thuốc lá, béo phì, mắc các bệnh tiểu đường, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu và xơ vữa động mạch.

Phát hiện hẹp động mạch thận

Một thời gian sau khi mắc các bệnh là nguyên do gây hẹp động mạch thận nói trên hoặc sau lúc bị chấn thương, nếu bị hẹp động mạch thận, bệnh nhân sẽ có các dấu hiệu như sau: tăng huyết áp, do hẹp động mạch thận làm giảm lượng máu đến nhu mô thận, kích thích hệ thống renin - angiotensin hoạt động làm nâng cao huyết áp. Đặc điểm chính của nâng cao huyết áp do hẹp động mạch thận là huyết áp tăng cao, khó hoặc không kiểm soát được bằng điều trị nội khoa. Bệnh tăng huyết áp do hẹp động mạch thận có 1 số tính chất: khởi phát tại người chưa tới 30 tuổi; nâng cao huyết áp nặng, khó kiểm soát sau 55 tuổi; suy giảm chức năng thận khi điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotengin; suy thận không giải thích được nguyên nhân; có triệu chứng của hẹp động mạch vành; và suy tim tiến triển không giải thích được nguyên nhân. Các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh như chụp cắt lớp vi tính, siêu âm, chụp mạch máu...đều có thể giúp chẩn đoán hẹp động mạch thận.

Các biến chứng nguy hiểm

Bệnh hẹp động mạch thận nếu như không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ gây ra các biến chứng nguy hiểm là: nâng cao huyết áp ác tính, nâng cao huyết áp cao từng cơn, đột ngột, không kiểm soát được bằng các phương pháp điều trị thông thường dẫn tới tai biến mạch não. Giảm tưới máu nhu mô thận làm thiếu máu thận mạn tính dẫn đến teo thận. Một nghiên cứu cho biết: có khoảng 14 - 49% số bệnh nhân có biểu hiện teo thận tại thời điểm chẩn đoán được bệnh hẹp động mạch thận. Suy thận tiến triển: do thiếu máu thận mạn tính dẫn đến teo các phức hợp cầu thận. Nếu bệnh nhân tiến triển tới suy thận giai đoạn cuối, phải lọc máu chu kỳ thì tỷ lệ tử vong lên đến 30% và thời gian sống trung bình của bệnh nhân hẹp động mạch thận là 27 tháng.

Điều trị ra sao?

Điều trị bệnh hẹp động mạch thận cần phối hợp nhiều biện pháp. Phương pháp nội khoa: là phương pháp điều trị cơ bản, chủ yếu để kiểm soát các yếu tố nguy cơ gây bệnh như xơ vữa động mạch, rối loạn mỡ máu, hút thuốc lá, chống viêm... Phẫu thuật bắc cầu là phương pháp sử dụng mạch máu nhân tạo hoặc mạch máu tự thân của bệnh nhân nối qua vị trí động mạch thận bị hẹp. Can thiệp nội mạch là phương pháp hiện đại được sử dụng để điều trị phổ biến nhất trên thế giới do nó an toàn và hiệu quả. Ở phương pháp này, chỗ hẹp động mạch thận sẽ được nong bằng bóng hoặc đặt mức chi phí đỡ lòng mạch (stent) để khắc phục hẹp động mạch.

Lời khuyên của thầy thuốc

Hẹp động mạch thận bẩm sinh thì không phòng tránh được, nhưng số người mắc bệnh loại này ít. Hẹp động mạch thận mắc phải có thể phòng tránh được để giảm số bệnh nhân đang nâng cao nhanh như hiện nay. Biện pháp cốt yếu là khám phát hiện sớm và điều trị tích cực các bệnh là nguyên nhân gây hẹp động mạch thận; Nâng cao ý thức bộ phận tránh tai nạn giao thông, tai nạn lao động và sinh hoạt; Bỏ hút thuốc lá, thuốc lào; Ăn uống điều độ, hạn chế ăn thức ăn nhanh để tránh thừa cân béo phì - đây là nguyên nhân gây xơ vữa động mạch và dẫn đến hẹp.

ThS. Nguyễn Mạnh Hà

Hỏi và đáp về bệnh suy thậnHỏi và đáp vào bệnh suy thậnBệnh viện 103 thực hiện thành công ca ghép tụy-thận trước nhất tại Việt NamBệnh viện 103 thực hiện thành công ca ghép tụy-thận trước hết tại Việt NamNgười bệnh có thể tử vong do suy thận mạnNgười bệnh có thể tử vong do suy thận mạn

 

Vai trò của gan trong chuyển hóa thuốc

Một trong những vai trò hết sức thiết yếu của gan là chuyển hóa thuốc, tạo điều kiện tiện dụng cho thuốc đào thải ra khỏi cơ thể.

Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất cơ thể, có khối lượng trung bình 1,2 - 1,3kg, nằm dưới cơ hoành ở phần trên bên phải của ổ bụng.

Gan có vai trò hết sức thiết yếu, tham gia rất nhiều vào các quá trình tiêu hóa, chuyển hóa, khử độc, đào thải… trong cơ thể.

Quá trình chuyển hóa thuốc ở gan

Các loại thuốc sau khi được uống qua đường miệng: viên nén, viên nang, viên sủi bọt… sẽ được hấp thu qua đường tiêu hóa. Sau đó, thuốc sẽ được hệ tuần hoàn đem tới đến các mạch máu, phóng thích hoạt chất phát huy tác dụng điều trị.

Tiếp theo quy trình đem đến thuốc là quá trình chuyển hóa thuốc. Quá trình chuyển hóa thuốc có thể diễn ra tại niêm mạc ruột, phổi, huyết tương… nhưng chính yếu vẫn diễn ra tại gan. Trong quá trình chuyển hóa này, có sự tham gia của các enzyme Cytochrome P450 ở lưới nội chất trơn của tế bào gan trong vai trò chất xúc tác.

Để thấm qua màng tế bào, đa số các loại thuốc là những chất dể hòa tan trong lipid. Khi thuốc qua gan sẽ được chuyển hóa thành những chất chuyển hóa có tính phân cực, tiện dụng hòa tan trong mật và nước tiểu để được đào thải ra ngoài.

Quá trình chuyển hóa thuốc tại gan thường trải qua hai giai đoạn: pha một và pha 2. Một vài loại thuốc chỉ chuyển hóa tại pha một hoặc pha 2, nhưng gần như thuốc chuyển hóa lần lượt qua pha một và pha 2.

Pha 1: diễn ra các phản ứng sinh hóa như phản ứng khử, phản ứng thủy phân nhưng cốt yếu là phản ứng oxy hóa do enzyme Cytochrome P450 xúc tác, thuốc bị ion hóa do các phân tử thuốc bị mất điện tử.

Pha 2: diễn ra các phản ứng kết hợp giữa thuốc với các nhóm ion hóa như: acid glucuronic, glutathione, glycin, gốc methyl, acetyl… ở tế bào chất của tế bào gan, kết quả tạo ra chất chuyển hóa dễ hòa tan trong nước.

Kết quả của quá trình chuyển hóa thuốc là phần nhiều các thuốc bị giảm hoạt tính, một số ít tăng hoạt tính hoặc vẫn giữ hoạt tính, 1 số tiền chất không hoat tính chuyển sang dạng có hoạt tính, một số trở thành chất chuyển hóa có độc tính.

Một số nếu vào chuyển hóa thuốc

Acid acetylsalicylic (aspirin) tại pha một bị thủy phân thành acid salicylic, tại pha hai kết hợp với glycin hoặc acid glucuronic thành chất chuyển hóa có tính phân cực, hòa tan trong nước tiểu và được đào thải ra ngoài.

Acetaminophen (paracetamol) ở pha 1 tạo thành chất chuyển hóa có độc tính NAPQI (N-acetyl-p-benzo-quinoneimine), tại pha 2 chất chuyển hóa này sẽ được khử độc lúc kết hợp với glutathione.

Cần lưu ý: lúc acetaminophen dùng ở liều cao, glutathione của tế bào gan không đủ để khử độc chất chuyển hóa và sự tích tụ của chất chuyển hóa có độc tính này sẽ ảnh hưởng đến tế bào gan, gây viêm gan.

Enalapril là 1 tiền chất không có hoạt tính, tại pha 1 bị thủy phân thành enalaprilat là 1 chất có hoạt tính làm hạ huyết áp.

Các nhân tố ảnh hưởng

Có phần lớn nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển hóa thuốc tại gan:

Do tuổi tác: tuổi càng cao số lượng tế bào gan và khả năng hoạt động của enzyme bị suy giảm.

Ở người cao tuổi và trẻ sơ sinh tốc độ chuyển hóa thuốc tại gan chậm.

Do bệnh lý: 1 số bệnh lý như suy tim, suy thận… làm giảm lưu lượng máu tới gan nên làm giảm khả năng chuyển hóa thuốc.

Do thuốc: một số thuốc gây ức chế enzyme (chloramphenicol, cimetidin, quinine…) làm chậm tốc độ bàn bạc chất, 1 số thuốc gây cảm ứng enzyme (phenobarbital, meprobamat, clorpromazin…) làm nâng cao tốc độ trao đổi chất.

Do di truyền, giới tính, môi trường…

Do thực phẩm:nước ép quả bưởi ức chế sự hoạt động của enzyme cytochrom P450 nên làm chậm quy trình chuyển hóa thuốc, tích lũy nồng độ thuốc gây hại cho cơ thể. Vì vậy, không được uống nước ép quả bưởi lúc đang sử dụng thuốc giảm cholesterol nhóm statin (simvastatin, atorvastatin…), thuốc cao huyết áp nhóm đối kháng canxi (nifedipin, amlodipin…)…

Hút thuốc lá: làm nâng cao sự hoạt động của enzyme cytochrom P450, ảnh hưởng tới quá trình chuyển hóa thuốc tại gan.

Lịch tiêm chủng quốc gia mà các bậc cha mẹ PHẢI biếtLịch tiêm chủng quốc gia mà các bậc cha mẹ PHẢI biếtTriển khai biện pháp mạnh ngăn chặn sởiTriển khai biện pháp mạnh ngăn chặn sởiCách bộ phận tránh bệnh sởi cho trẻ dưới 9 thángCách bộ phận tránh bệnh sởi cho trẻ dưới 9 tháng

(SKĐS cuối tuần)

Món ăn sushi và sashimi: Ẩn họa khó lường

Món ăn sushi và sashimi của nền văn hóa ẩm thực Nhật Bản đã du nhập vào nước ta và không còn xa lạ đối với người muốn thưởng thức những đặc sản mang tính thời thượng, sành điệu này. Tuy vậy, đằng sau đó là những ẩn họa khó lường.

Sushi được làm từ gạo dẻo nấu thành cơm trộn với mè trắng và một ít dấm. Sau khi trộn đều, cơm được rải đều thành một lớp mỏng trên 1 miếng lá tảo khô được trải trên 1 tấm vỉ đan bằng tre. Cho vài lát cá sống về tại giữa rồi cuộn tròn lại, cắt thành khoanh, đặt lên đĩa, cho vài lát gừng ngâm dấm bên cạnh. Còn món sashimi được chế biến toàn bằng những lát cá sống được cắt thành lát dày, đặt lên đĩa, cho thêm vài lát gừng bên cạnh.

Khi ăn, món sushi hoặc sashimi được chấm với một loại nước tương trộn với chất mù tạt để giúp tạo mùi cay nồng và cảm giác khoái khẩu. Khi chế biến món ăn này, cá phải được chọn lọc kỹ, không sử dụng cá nước ngọt vì dễ có nguy cơ bị nhiễm vi khuẩn và ký sinh trùng nhiều hơn cá nước mặn. Tuy vậy, mặc dù sử dụng loại cá nước mặn sống ở biển vẫn có nguy cơ bị nhiễm ấu trùng giun, đặc biệt là ấu trùng giun Anisakis.

Ẩn họa khó lường do nhiễm ấu trùng giun Anisakis

Giun Anisakis là loại giun tròn ký sinh ở những động vật biển và có hình thể sắp giống như giun đũa. Giun trưởng thành ký sinh ở các loại động vật sinh sống ở biển như cá voi, cá heo, sư tử biển, hải cẩu, hải mã... Tại các loại vật chủ này, giun đực và giun cái trưởng thành sau lúc giao phối; con cái đẻ trứng, trứng theo phân bài tiết ra ngoài và phát triển thành ấu trùng giun bơi lơ lửng trong nước biển. Ấu trùng giun bị các loài giáp xác ở biển như tôm nuốt vào, trở thành ấu trùng giai đoạn 2. Sau đó, loài tôm giáp xác lại bị loại vật chủ trung gian thứ hai như cá mòi, cá thu, cá hồi, mực, bạch tuộc ăn về cơ thể rồi trở thành ấu trùng giai đoạn 3 để sẵn sàng gây nhiễm cho vật chủ vĩnh viễn là những sinh vật biển như đã nói ở trên.

Đối với người, bệnh thường gặp tại những đối tượng bệnh nhân có tập quán, sở thích ăn gỏi các loại cá biển, mực, bạch tuộc còn sống, chưa được nấu chín kỹ. Ấu trùng giun có thể xâm nhập qua đường tiêu hóa khi ăn phải thức ăn hải sản nói trên không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt là món sushi và sashimi, một món ăn truyền thống của Nhật Bản. Các nhà khoa học thông báo tại đất nước này đã ghi tiếp nhân có trên 12.000 người bị mắc bệnh và đang có xu hướng nâng cao lên ở các nước Tây u, Hoa Kỳ, một số quốc gia khác cùng với gia tăng việc tiêu thụ các món ăn được chế biến từ cá sống. Bệnh cũng thường gặp ở Hà Lan do tập quán ăn cá trích hun khói, tại bán đảo Scandinavia và bờ biển Thái Bình Dương thuộc châu Mỹ Latin. Có thể nói loại giun Anisakis phân bố tại khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam nên người dân nước ta rất dễ có nguy cơ bị nhiễm bệnh nếu như không chú ý cẩn thận trong việc ăn gỏi các loại hải sản cá biển, mực, bạch tuộc còn sống chưa được chế biến chín; song song cũng nên thận trọng với món ăn cá sống sushi và sashimi là món ăn truyền thống của Nhật Bản nhưng mang tính thời thượng, sành điệu tại 1 số người thượng lưu trong các buổi liên hoan, tiệc tùng, ăn uống tại nhà hàng đặc sản.

Về diễn biến bệnh lý, lúc người ăn phải các loại thức ăn hải sản còn sống, chưa được nấu chín kỹ như đã nêu; ấu trùng giun có thể chui về thành dạ dày để tạo nên các ổ loét cấp tính, gây buồn nôn, nôn, đau vùng thượng vị, đôi khi nôn ra máu... dễ nhầm với bệnh ung thư dạ dày. Đồng thời ấu trùng giun có thể di chuyển, bám về vùng hầu, họng gây ho. Ở ruột non, ấu trùng giun có thể gây ra áp-xe, có không ít bạch cầu ái toan, triệu chứng giống viêm ruột thừa hoặc viêm đoạn hồi tràng. Một số trường hợp ấu trùng giun có thể chui về khoang phúc mạc nhưng ít lúc xâm nhập vào đại tràng.

Chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh

Trên lâm sàng, việc chẩn đoán bệnh được xác định khi phát hiện tìm thấy ấu trùng giun Anisakis dài khoảng vài centimét xâm nhập vào vùng hầu, họng hoặc tìm thấy ấu trùng giun lúc nội soi dạ dày hay trong các mảnh mô tế bào được phẫu thuật cắt bỏ.

Hiện nay bệnh do ấu trùng giun Anisakis gây nên chưa có thuốc đặc hiệu điều trị, việc điều trị bằng cách phẫu thuật cắt bỏ các u hạt có ấu trùng ký sinh là phương pháp duy nhất có hiệu quả. Vì vậy đây là một ẩn họa khó lường, cộng đồng người dân cần cảnh giác để phòng bệnh vì việc phát hiện, chẩn đoán, điều trị còn hạn chế.

Cách bộ phận bệnh có hiệu quả nhất là chỉ nên ăn cá biển, mực, bạch tuộc đã nấu chín, không ăn gỏi chế biến còn tái; nhất là là món sushi và sashimi không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Nếu có sở thích, không thể bỏ được các món ăn đã được khuyến cáo này, thực phẩm hải sản cá cần được chế biến như muối cá trong vòng 7 ngày, hong cá bằng khói thật kỹ, đông lạnh cá tại nhiệt độ âm 20oC trong vòng một tuần hay âm 35oC trong vòng 7 giờ để có thể diệt được loại ấu trùng giun Anisakis ký sinh trên thực phẩm. Nên nhớ rằng chỉ ăn gỏi cá, mực, bạch tuộc; món sushi, sashimi khi nguyên liệu đã được làm đông lạnh theo quy định nhưng làm sao đảm bảo được vấn đề này nếu mình không phải là đầu bếp mà chỉ là thực khách tới các nhà hàng, quán ăn. Dù sao cũng cần cảnh giác trước khi quá muộn.

TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH

 

8 nhà hát opera đẹp nhất thế giới8 nhà hát opera đẹp nhất thế giới10 giây phút đáng yêu nhất của William và Kate10 giây phút đáng yêu nhất của William và KateLá thư người mẹ trên tàu TitanicLá thư người mẹ trên tàu Titanic

(SKĐS cuối tuần)